Câu hỏi. Hoa tiêu có phải là người bắt buộc phải có trên tàu khi tàu biển ra khơi không? Giả sử con tàu đang đi vào cảng biển và thuyền trưởng phụ trách con tàu đã có Giấy chứng nhận chuyên môn hoa tiêu hàng hải được cấp phép trên vùng biển này thì thuyền trưởng có thể thay thế hoa tiêu trên tàu để dẫn tàu vào cảng hay không?
LG. ThS. Bùi Nguyễn Trà My (Trường Đại học Kinh tế - Luật, Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh) trả lời như sau:
Theo khoản 1 điều 249 BLHH 2015, “hoa tiêu hàng hải là người cố vấn cho thuyền trưởng điều khiển tàu phù hợp với điều kiện hàng hải ở khu vực dẫn tàu của hoa tiêu hàng hải”. Như vậy hoa tiêu là người dẫn tàu, người giúp thuyền trưởng đưa ra các quyết định điều khiển tàu phù hợp với điều kiện hàng hải của một khu vực nhất định. Việc sử dụng hoa tiêu trên tàu không bắt buộc trừ khi tàu đi vào vùng hoa tiêu bắt buộc do luật quy định. Nếu tàu đi vào vùng hoa tiêu bắt buộc mà không có hoa tiêu thì chủ tàu có thể bị xử phạt vi phạm hành chính theo khoản 4, điểm d khoản 5 điều 44 Nghị định 142/2017/NĐ-CP được sửa đổi bổ sung bởi Nghị định 123/2021/NĐ-CP.
Các vùng hoa tiêu bắt buộc của Việt Nam được quy định tại Thông tư số 43/2018/TT-BGTVT quy định về vùng hoa tiêu hàng hải bắt buộc của Việt Nam. Thông thường khi tàu vào khu vực cảng thì sẽ bắt buộc cần hoa tiêu bởi tỉ lệ đâm va và tai nạn ở cảng cao hơn rất nhiều khi tàu ở ngoài khơi. Ngoài ra, mực nước ở cảng sẽ nông hơn ngoài khơi, do đó khi tàu biển với trọng tải lớn vào hoặc rời cảng sẽ cần một người am hiểu khu vực đó để chỉ dẫn tàu vào và rời cảng.
Các trường hợp không bắt buộc phải sử dụng dịch vụ hoa tiêu được quy định tại khoản 3 điều 247 BLHH 2015. Theo đó, khi thuyền trưởng đã có giấy chứng nhận chuyên môn hoa tiêu hàng hải, giấy chứng nhận vùng hoạt động hoa tiêu hàng hải phù hợp với loại tàu thuyền và vùng hoa tiêu hàng hải bắt buộc mà tàu đang hoạt động được phép tự dẫn tàu thì thuyền trưởng có quyền lựa chọn sử dụng dịch vụ này nếu thấy cần thiết hoặc không. Thông thường trong trường hợp thuyền trưởng không chắc chắn về địa hình vùng biển đó thì sẽ sử dụng dịch vụ hoa tiêu. Nếu không sử dụng dịch vụ hoa tiêu, cần xác định rõ thuyền trưởng đang chỉ huy con tàu dưới tư cách nào, là thuyền trưởng của con tàu hay dưới tư cách là hoa tiêu hàng hải có chứng chỉ chuyên môn hoa tiêu trên vùng biển tàu đang hoạt động hay đóng vai trò cả hai.

Ảnh minh họa (sưu tầm)
Câu hỏi: Khi một con tàu thực hiện hoạt động cứu hộ con tàu khác, bên cứu hộ và bên được cứu hộ có cần thiết phải xác lập hợp đồng cứu hộ bằng văn bản không, có cần phải nêu rõ số tiền công cứu hộ hay không? Làm sao để xác định được tiền công cứu hộ?
LG. ThS. Bùi Nguyễn Trà My (Trường Đại học Kinh tế - Luật, Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh) trả lời như sau:
Quy định về nguyên tắc tính tiền công cứu hộ ra đời để khuyến khích việc cứu hộ, bởi nếu không có việc cứu hộ thì sẽ dẫn tới thiệt hại nặng nề về tiền của, con người và đặc biệt ảnh hưởng tới an toàn hàng hải. Nhờ đó, người cứu hộ sẽ được thanh toán tiền công một cách công bằng nhất.
Điều khoản trả tiền công cứu hộ cho người cứu hộ là một nội dung quan trọng trong hợp đồng. Thông thường, số tiền công không được xác định cụ thể mà dựa trên nguyên tắc “No cure no pay” (dịch ra là “Không cứu được không trả tiền). Nguyên tắc này đã được thay đổi trong luật các nước, bao gồm Việt Nam trở thành “Không đạt được kết quả có ích không trả tiền”. Có hai quan điểm giải thích về “Kết quả có ích”. Thứ nhất, đạt được “Kết quả có ích” có nghĩa là tài sản được cứu hộ có sự cải thiện hơn nếu không được cứu hộ. Yếu tố “có ích” ở đây là sự cải thiện tình trạng hoặc giá trị tài sản được cứu so với khi không được cứu thay vì chỉ đơn giản là xem xét số tài sản được cứu, vì có thể có trường hợp dù cứu hộ hay không cứu thì tài sản cũng không bị ảnh hưởng về giá trị. Quan điểm thứ hai là hoạt động cứu hộ về cơ bản là có ích cho đối tượng được cứu. Tùy theo mức độ thiệt hại hoặc mức ảnh hưởng của việc cứu hộ cẩu thả và không hiệu quả, tiền công của người cứu hộ sẽ bị giảm, thậm chí bị hủy bỏ[1]. Ngoài ra, “kết quả có ích” bao gồm cả trường hợp người cứu hộ tuy không cứu được tàu và tài sản trên tàu nhưng đã có nỗ lực ngăn chặn hoặc giảm thiểu thiệt hại ô nhiễm môi trường (theo điều 268 BLHH 2015).
Tuy nhiên nguyên tắc này có thể ngăn cản việc cứu hộ bởi người cứu hộ có thể cho rằng họ đã bỏ nhiều thời gian, công sức cho việc cứu hộ nhưng nếu không thành công thì sẽ không được nhận tiền công cứu hộ. Do đó các bên có thể lựa chọn thỏa thuận cố định tiền công trong hợp đồng. Nếu hai bên đã thỏa thuận tiền công cứu hộ thì tiền công sẽ xác định theo thỏa thuận hai bên. Nếu hai bên không có thỏa thuận thì tiền công cứu hộ sẽ xác định dựa trên nguyên tắc tính tiền công mà BLHH quy định, cụ thể là khoản 2 Điều 267 của BLHH 2015 và do Tòa án hoặc Trọng tài thương mại, chuyên gia tính toán, xác định. Các tiêu chí xét tới như giá trị tài sản trục vớt, kỹ năng của người trục vớt, mức độ nguy hiểm của tình huống, rủi ro khi thực hiện….Các tiêu chí được liệt kê trong điều 267 không theo thứ tự thứ bậc, do đó không có yếu tố nào được coi là yếu tố quyết định nhất về số tiền thưởng.
Người cứu hộ ngoài cách cứu được tàu và tài sản trên tàu thì còn có cách thứ hai để nhận tiền công cứu hộ, đó là tiền công đặc biệt theo điều 268. Người cứu hộ đã hỗ trợ tàu có nguy cơ gây thiệt hại về môi trường nhưng không hưởng đủ tiền công theo khoản 1 và khoản 2 điều 267 BLHH thì sẽ được hưởng tiền công đặc biệt. Khoản 2 điều 268 quy định khoản tiền công này lên tới 30% chi phí phát sinh của người cứu hộ, nhưng nếu có khiếu kiện và xét thấy hợp lý và dựa trên căn cứ tính tiền công theo điều 267 thì khoản tiền có thể tăng nhưng không vượt quá 100%. Khoản tiền này chỉ được trả trong phạm vi vượt quá phần thưởng điều 267 (theo khoản 4 điều 268). Chỉ chủ tàu phải chịu trách nhiệm thanh toán khoản tiền công đặc biệt, nhưng điều này không ảnh hưởng quyền truy đòi của chủ tàu đối với các bên được cứu hộ (khoản 6 điều 268).
Ngoài ra, theo điều 300 BLHH 2015, tiền công cứu hộ và tiền công cứu hộ đặc biệt không thuộc trường hợp chủ tàu được giới hạn trách nhiệm, có nghĩa là chủ tàu phải trả đầy đủ số tiền công mà người cứu hộ được hưởng mà không được giới hạn theo quy định của luật.
[1] Baatz, Y (2014), Maritime Law, tái bản lần thứ 3, nxb Informa Law from Routledge,tr. 234